Biểu diễn Opera_tại_Việt_Nam

Thời Pháp thuộc

Đông Dương, chính quyền thực dân Pháp quan tâm đến sứ mệnh khai hoá văn minh nên đã cho xây dựng ba nhà hát lớn. Nhà hát Lớn Sài Gòn hoàn thành năm 1897. Nhà hát Lớn Hải Phòng được xây dựng năm 1904 và khánh thành năm 1912. Khi người Pháp dời thủ đô về Hà Nội năm 1887, nhà hát lớn nhất được xây dựng ở đó vào năm 1901, dù mãi đến năm 1911 mới được khánh thánh. Pháp đã đặt sứ mệnh của nước thuộc địa là xây dựng những nhà hát lớn và tài trợ cho các mùa diễn của họ liên quan đến việc ký hợp đồng và mời các đoàn hát nhạc kịch từ Pháp sang đây biểu diễn.[30] Hầu hết các nhà sử học về chủ nghĩa thực dân Pháp không đề cập đến opera hay các thể loại sân khấu phương Tây trong các cuộc thảo luận của họ về công cuộc khai phá văn minh. Thông thường, họ tập trung vào việc xây dựng mạng lưới giao thông, cơ sở hạ tầng đô thị và các công trình công cộng khác. Tuy nhiên, người Pháp sống ở Đông Dương đã nhận thức được tầm quan trọng trong việc dàn dựng opera và nghệ thuật sân khấu khác trong ở địa mà họ đô hộ. Những buổi biểu diễn opera như vậy không chỉ đại diện cho thành tựu lịch sử của Pháp mà còn như một lời nhắc nhở cộng đồng người bản địa về lòng trung thành với nước Pháp và về những giá trị mà họ mong muốn duy trì. Vì vậy, việc giới thiệu opera đến Đông Dương là nhằm để phục vụ cho việc khai phá văn minh.[31]

Sài Gòn

Opera đã xuất hiện tại Việt Nam từ thời Pháp thuộc thông qua một số hoạt động biểu diễn tại Nhà thờ Công giáo và một số nhà hát. Trong thập niên năm 1860 và 1870, Sài Gòn đã có nhiều buổi biểu diễn nghệ thuật của người Pháp, chủ yếu là múa ballet và opera do chính quyền Sài Gòn tài trợ.[32] Vở opera cổ điển phương Tây đầu tiên được biểu diễn tại Sài Gòn là Les deux aveugles của Jacques Offenbach, ngay khi người Pháp mới đến Sài Gòn năm 1864.[33] Hàng năm, hội đồng thành phố này đều chỉ định ngân sách và các yêu cầu khác cho mùa biểu diễn, đồng thời phải chọn một đạo diễn, người có nhiệm vụ mời các ca sĩ và nhạc sĩ từ Pháp qua biểu diễn. Các vở opera được chọn "một cách khá bảo thủ", nhưng trong năm 1894, 12 vở được mua lại thì có 7 vở mới vừa biểu diễn tại Paris.[33]

Từ năm 1898, hội đồng thành phố Sài Gòn đòi hỏi phải có "ít nhất 5 opera hài kịch và 5 operetta chưa được biểu diễn tại Sài Gòn trong 3 năm qua" hoặc "các tác phẩm nổi tiếng và mới ra mắt tại Pháp".[33] Ban đầu khi chưa có nhà hát, những buổi biểu diễn này phải tạm diễn tại dinh các đô đốc gần công trường Đồng Hồ (ngày nay là giao lộ Đồng Khởi). Năm 1894, công trình mới mà về sau là Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh được xây dựng trên bản thiết kế của Eugène Ferret theo lối kiến trúc thời Đệ tam Cộng hòa Pháp.[32] Đích thân Camille Saint-Saëns đã ghé thăm Sài Gòn năm 1895 và xem một cuộc biểu diễn, tuy nhiên ông cảm thấy "có chút thất vọng". Tuy nhiên nhà soạn nhạc này đã kỳ vọng tác phẩm Phryné của mình sẽ được biểu diễn tại đây. Mùa biểu diễn năm 1900-1901 gồm nhiều tác phẩm mới, trong đó có vở La bohème của PucciniSamson và Delilah của Saint-Saëns.[33] Vở diễn đầu tiên tại nhà hát là La Navarraise của Jules Massenet và đã giành được "thành công vang dội", đặc biệt đối với lính mới trở về từ chiến dịch ở Trung Quốc.[33] Năm 1924, nhà hát lớn Sài Gòn nhận số tiền tài trợ lên đến 800.000 franc, cao hơn tất cả các nhà hát khác ở mẫu quốc trừ Paris OperaOpéra-Comique.[34]

Hà Nội

Do tầm quan trọng của nghệ thuật biểu diễn trong văn hóa châu Âu, âm nhạc và kịch Pháp đến Hà Nội gần như song song với chính quyền cai trị thực dân. Những bản kịch thời sự dần được công diễn ở đó vào đầu năm 1884, và các nghệ sĩ biểu diễn người Pháp đã đi lưu diễn ở Châu Á sớm bắt đầu coi Hà Nội là điểm dừng chân trong các chuyến lưu diễn của họ. Hầu hết những buổi biểu diễn này dường như là những buổi biểu diễn âm nhạc giải trí còn khiêm tốn về mặt quy mô, giống những buổi hòa nhạc ở quán cà phê tại Paris hơn là những buổi biểu diễn sân khấu trang trọng. Tuy nhiên, những sự thay đổi này đã thúc đẩy sự thèm muốn của những người Pháp xa xứ ở Hà Nội với như cầu được xem những tác phẩm công phu hơn.[31] Nỗ lực đầu tiên để tổ chức một mùa diễn opera bắt đầu vào đầu năm 1890, khi một đoàn 14 nghệ sĩ đến Hà Nội với người lãnh đạo là De Greef, giám đốc nhà hát lớn Sài Gòn. Họ mượn nghệ sĩ từ đội ngũ của đoàn kịch Sài Gòn, trình bày những tác phẩm tiêu biểu của Gounod, Massé, Offenbach cùng những nhà soạn nhạc nổi tiếng khác. Đoàn kịch đã hoạt động thành công, nhưng chỉ tồn tại trong vài tuần.[35]

Những vở opera của Saint-Saëns cùng với nhiều tác phẩm khác vẫn còn được biểu diễn đến năm 1910.[33] Nhà hát lớn Hà Nội cũng là một công trình lớn mà Chính quyền thực dân Pháp cho xây dựng trong những năm đầu thế kỷ 20. Sau khi hoàn thành, nhà hát được sử dụng làm nơi biểu diễn các loại hình nghệ thuật cổ điển phương Tây như âm nhạc thính phòng, kịch nói, trong đó có cả opera, phục vụ chủ yếu cho tầng lớp quan lại thượng lưu người Pháp và một số ít người Việt giàu có.[3] Một số vở opera được biểu diễn ở Nhà hát lớn Hà Nội khi mới được khánh thành năm 1911 có thể kể đến một số vở nổi tiếng của Franz Lehár, Gustave Charpentier, Georges Bizet, Charles Gounod...[36] Trong thời điểm giữa hai cuộc thế chiến, chính quyền Đông Dương đã không còn tài trợ biểu diễn như trước nữa và cũng ít có mối quan tâm hơn, nhưng opera vẫn tiếp tục được biểu diễn cho đến sự kiện Nhật đảo chính.[36] Opera ở Hà Nội đã làm rõ những sai sót trong sự thể hiện quyền lực của đế quốc Pháp, trong khi đó sự hiện diện của Nhà hát lớn Hà Nội vốn không được chú tâm dàn dựng và công diễn những vở opera lớn đã đặt ra một nghi vấn về chủ nghĩa thực dân, thay vì đưa ra câu trả lời.[37]

Thời kì sau chiến tranh Đông Dương

Ca sĩ opera Hương Diệp cùng Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam đang trình bày aria "Em nghĩ sao không ra" trích từ vở "Cô Sao" của Đỗ Nhuận.

Sau khi miền Bắc Việt Nam giành được độc lập vào năm 1954, việc biểu diễn các vở kịch nói, ca cảnh, ca kịch, tuồng, chèo, cải lương là một nguồn sự thúc đẩy thêm cho sự biểu diễn opera ở Việt Nam. Hoạt động biểu diễn còn được thể hiện trong các chương trình hợp tác quốc tế. Những buổi biểu diễn các vở opera nước ngoài đã tạo thêm động lực cho các ca sĩ và nhạc sĩ Việt Nam đối với nghệ thuật opera. Năm 1961, Đoàn Ca Múa nhân dân Trung ương cùng với Trường Âm nhạc Việt Nam và Dàn nhạc giao hưởng Đài Tiếng nói Việt Nam với sự giúp đỡ của một chuyên gia thanh nhạc Liên Xô đã dựng và biểu diễn vở opera “Evgeni Onegin” của Tchaikovsky. Năm 1964, Nhà hát Nhạc Vũ Kịch Việt Nam đã biểu diễn vở “Núi rừng hãy lên tiếng” của Triều Tiên.[4] Onegin do Quý Dương và Gremil do Trần Hiếu thể hiện, ngoài ra còn có Ngọc Dậu, Trần Chất và nhiều người khác cùng tham gia. Lần đầu đã không đạt được kết quả như mong muốn, mới chỉ là sự giới thiệu loại hình nghệ thuật còn mới lạ đến với công chúng Việt Nam, nhưng đã thúc đẩy cho sự phát triển sau này.[38] Đó là những vở opera đầu tiên các nghệ sĩ Việt Nam biểu diễn.[4] Đây được xem là bước hội nhập đầu tiên của người Việt đối với nghệ thuật opera, và trở thành tiền đề cho quá trình xây dựng nền nghệ thuật opera mang tính chiến lược lâu dài. Bên cạnh đó, nhiều vở khác đã được dàn dựng và biểu diễn nhưng không được thu âm lại, qua đó không còn tư liệu lưu giữ đến ngày nay.[39]

Đối với miền Nam Việt Nam, vở Hansel and Gretel đã được biểu diễn tại Sài Gòn vào năm 1970 là vở opera đầu tiên được biểu diễn tại thành phố trong hơn 30 năm. Vở diễn này là để gây quỹ cho nghệ thuật hát bội.[40]

Đến những năm 1990, opera Việt Nam được biểu diễn tới công chúng nhờ vào sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế như Thuỵ Điển, Hội đồng Anh... nhưng vào thời điểm này, những vở opera thuần Việt dường như không xuất hiện mà chỉ có các tác phẩm nước ngoài.[7]

Tới đầu thế kỷ 21 tại Việt Nam, khái niệm opera vẫn mới chỉ được xem là "đơn giản và rất mơ hồ". Thời kỳ đỉnh cao của opera Việt Nam đã có sự giúp sức gần như tối đa từ tài chính đến nhân lực của Nhà nước cũng như các nước như Nga, Đức, Pháp, qua đó có những vở như 3 vở opera trong cuộc đời của Đỗ Nhuận; Bên bờ K’rông Pa của Nhật Lai, Bông sen của Hoàng Việt. Thập niên 2010, Nhà hát Nhạc Vũ Kịch Việt Nam đã cho dựng một số vở opera. Dù đôi lúc opera được trình diễn trên sân khấu ở Hà NộiThành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam vẫn chưa thực sự có một nền nghệ thuật opera chuyên nghiệp, ổn định. Số người sáng tác opera không nhiều nên chủ yếu dàn dựng tác phẩm kinh điển của nước ngoài. Bên cạnh đó, đây cũng là thể loại nghệ thuật kén khán giả hơn là âm nhạc đại chúng, trong khi để dàn dựng và một biểu diễn opera vẫn còn vướng mắc vấn đề tài chính eo hẹp. Việt Nam vẫn chưa có cơ hội thuận lợi cho opera phát triển. Do đó, việc sáng tác và biểu diễn opera trở nên "xa xỉ" tại Việt Nam, khiến loại hình này gần như vắng bóng.[41][42] Để opera tại nước này phát triển, một số cuộc thi đã được tổ chức nhưng được nhận định vẫn chưa có nhiều hiệu quả.[43]

Dàn dựng

Các đạo diễn người Châu Âu đã có những sáng tạo nghệ thuật trong quá trình dàn dựng các tác phẩm opera cổ điển của thế giới tại Việt Nam ngày nay, đưa hình thức nghệ thuật này gần gũi với sự tiếp nhận của khán giả Việt Nam hiện đại, đồng thời vẫn phổ biến được các giá trị nghệ thuật của thể loại nhạc kịch này.[44] Một vấn đề khác được đặt ra rằng, số tiền đầu tư cho một tác phẩm opera tại Việt Nam được xem là không đáng kể so với những khoản kinh phí được cấp cho các lễ hội và các dự án đầu tư vào các loại hình âm nhạc truyền thống được vinh danh di sản thế giới. Mặt khác, không có vở opera nào được ngành văn hóa Việt Nam đặt hàng để xúc tiến loại hình nghệ thuật này.[7] Những vở opera có sức ảnh hưởng trên thế giới như Cây sáo thần, Cosi fan tutte hay La Boheme đều mất tổng số kinh phí lên đến hàng tỷ Đồng trở lên. Tuy nhiên, có những vở khi công diễn chỉ thu về lợi nhuận không tới 50 triệu Đồng.[7]

Năm 2006, Cây sáo thần của Mozart được dàn dựng tại Việt Nam, được coi là một trong những sự kiện âm nhạc lớn nhất diễn ra tại nước này trong năm, cũng là cơ hội giúp đánh thức "tiềm năng âm nhạc cổ điển cho đất nước".[45] Năm 2012, vở "Cô Sao" được phục dựng và tái biểu diễn, mang nhiều ý nghĩa với nền âm nhạc nước này khi lần đầu nhiều người dân Việt Nam được xem một loại hình nghệ thuật có tính chất quốc tế như opera.[46][47] Năm 2016, Carmen – vở nhạc kịch được xem là nổi tiếng nhất của Pháp và là một trong những vở được diễn nhiều nhất trên thế giới, đã ra mắt công chúng Việt Nam tại Nhà hát thành phố Hồ Chí Minh.[48] Mặc dù gặp những khó khăn trước mắt trên con đường phát triển và đưa opera đến gần với công chúng Việt hơn, Nhà hát Nhạc Vũ kịch Việt Nam đã đưa vở Maria de Buneos Aires lên sân khấu Nhà hát Lớn với một phong cách mới, đặc biệt là việc đưa dàn nhạc lên sân khấu để tương tác trực tiếp với ca sĩ và dàn diễn viên múa. Chương trình đã thu hút được khán giả thông qua truyền thông, báo chí. Nhiều bài viết, chương trình truyền hình phân tích về tác phẩm này, giúp kéo khán giả Việt đến với opera nhiều hơn.[7]

Đầu thập niên năm 2020, chỉ mới vài vở opera Việt Nam được khôi phục, dàn dựng trên sân khấu trong vài năm gần đây. Việc khai thác các tiết mục thanh nhạc trong các vở opera Việt Nam để biểu diễn còn chưa nhiều, qua đó thể hiện sự quan tâm chưa đúng mức đến thể loại này.[6] Năm 2022, buổi công diễn vở “Công nữ Anio” được công bố tại Việt Nam sẽ được tổ chức dự kiến vào tháng 9 năm 2023 tại nhà hát Lớn Hà Nội. Đây là dự án trọng tâm trong sự kiện kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Nhật Bản – Việt Nam.[49]

Nhà hát

Nhà hát lớn Hà Nội (trên), nhà hát opera Hồ Gươm (giữa) và Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh (dưới)

Những nhà hát đầu tiên của Việt Nam cũng được xây dựng từ đầu những năm 1900 như Nhà hát lớn Hà NộiNhà hát Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là nơi diễn ra những chương trình văn hoá nghệ thuật và các buổi diễn opera lớn, nhưng các nhà hát tại Việt Nam vẫn đang ở mức phục vụ các chương trình nghệ thuật ở quy mô trong nước, chưa thể trở thành nơi biẻu diễn của những nghệ sĩ nổi tiếng toàn thế giới trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật.[50] Thời điểm năm 1990, Nhà hát Nhạc Vũ Kịch Việt Nam mới có đủ khả năng phối hợp dàn dựng những tác phẩm opera lớn, và cũng chỉ có nhà hát này mới có đủ các nghệ sĩ có trình độ để biểu diễn opera. Tính ở thời điểm đó, nhà hát dàn dựng và công diễn khoảng dưới 10 vở opera.[7]

Nghệ sĩ Đỗ Quốc Hưng từng nêu ra vấn đề việc không thống nhất giữa hai khái niệm nhà hát khiến cho loại nhà hát kiểu rạp hát lớn tại Việt Nam không còn là thánh đường của nghệ thuật opera. Để duy trì hoạt động, nhà hát phải chấp nhận cho nhiều loại hình âm nhạc, nghệ thuật ngoài opera, thậm chí cả những hoạt động không phải nghệ thuật cũng diễn ra tại đây. Những hoạt động này tuy đạt được mục đích về kinh tế, nhưng đã làm mất đi vị thế, giá trị và chức năng chính của nhà hát. Thực trạng này đã diễn ra ở cả Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh trong một khoảng thời gian dài.[38]

Tới năm 2020, sân khấu biểu diễn opera chuyên nghiệp ở Việt Nam vẫn chưa có. Nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân cho biết việc dựng vở Người tạc tượng tại Nhà hát Nhạc Vũ Kịch Việt Nam chỉ còn cách phải phóng thanh bằng sử dụng micro chuyên dụng treo ở trên và đặt dưới mặt đất.[42] Nhà hát Nhạc Vũ Kịch Việt Nam đã ra đời được hơn 50 năm nhưng chưa có được một lực lượng ca sĩ hát opera tương xứng, chưa tạo được sức hút đối với công chúng.[51] Suốt thời gian qua từ đầu thế kỷ 21, chỉ có Nhà hát Nhạc Vũ Kịch Việt Nam và Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh ra sức cố gắng để xây dựng và sản xuất các vở opera nổi tiếng thế giới và một số tác phẩm opera Việt. Tuy nhiên, kinh phí dàn dựng là vấn đề trở ngại lớn nhất.[7]

Năm 2022, một dự án quy hoạch xây dựng nhà hát opera ở Hồ Tây đã được công bố, nhận được sự quan tâm nhất định từ giới chuyên môn và người dân Hà Nội.[52][53] Năm 2023, nhà hát opera mang tên Hồ Gươm được khánh thành tại quận Hoàn Kiếm được xem là nhà hát có thiết kế, không gian kiến trúc và trang thiết bị hiện đại nhất tại Việt Nam tại thời điểm đi vào hoạt động.[54][55] Nhà hát này được dự định là yếu tố thúc đẩy đời sống văn hóa, nghệ thuật của người dân tại thành phố Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung.[56]

Nghệ sĩ

Một số nghệ sĩ opera tại Việt Nam thế kỷ 21. Từ trái qua phải:

Các nghệ sĩ giọng nữ cao luôn chiếm ưu thế trong thể hiện các tác phẩm thanh nhạc từ khi Trường Âm nhạc Việt Nam được thành lập và đào tạo phần lớn giọng nữ cao.[6] Nổi bật trong số những nghệ sĩ giọng nữ cao là Lê Dung, bà được xem là người đặt nền móng của nhạc cổ điển tại Việt Nam, đồng thời được nhận định là người có tài năng, thành tựu lớn trong việc đem giá trị của nên văn hóa, âm nhạc thế giới với công chúng Việt Nam.[57][58]

Trong khi đó, với những nam nghệ sĩ opera, chất giọng nam trầm tại Việt Nam và một số nước châu Á nói chung vẫn trong tình trạng khan hiếm.[43] Đỗ Quốc Hưng hiện là giọng nam trầm hiếm hoi tại Việt Nam.[59]

Thế kỷ 21, những nghệ sĩ có tâm huyết với opera đã nỗ lực tìm kiếm đầu tư, xây dựng kịch bản, tập hợp nghệ sĩ để biểu diễn trước công chúng một số vở diễn thuộc loại hình được cho là "kén người thưởng thức" tại quốc gia này. Số lượng nghệ sĩ opera có trình độ cao tới thập niên 2020 vẫn chỉ là con số khiêm tốn.[42] Theo một nhận định từ báo chí, so với các nghệ sĩ opera trên thế giới, nghệ sĩ opera Việt Nam chưa được công chúng quan tâm và chưa nhận được sự đền đáp với công sức bỏ ra.[60] Qua một nghiên cứu, bản thân thể chất của người Việt cũng không có lợi thế để hát loại hình nghệ thuật này từ giọng hát tới thể lực bẩm sinh. Thông thường, một ca sĩ opera phải trải qua nhiều vòng tuyển chọn khắt khe và mất từ 6 tới 10 năm học tại trường lớp mới được biểu diễn trên sân khấu chuyên nghiệp. Trong quá trình học, họ phải bỏ cuộc vì bị rất nhiều cuộc thi khắc nghiệt ngăn cản và phải chịu những bài tập khó khăn về kỹ thuật, thể lực.[60]

Do cơ sở vật chất tại Việt Nam hiện chưa đáp ứng đủ để đào tạo ra một ca sĩ opera chuyên nghiệp, nhiều người buộc phải tự trang trải tài chính để du học. Nghệ sĩ opera Việt Nam từ nhiều năm nay vẫn hoạt động một cách âm thầm và gần như tách biệt hẳn với giới giải trí. Các buổi hòa nhạc, nhạc kịch diễn ra không nhiều và lượng khán giả đến xem rất thưa thớt, kéo theo tiền lương thấp, bằng một phần rất nhỏ so với một nghệ sĩ V-pop. Đa số ca sĩ opera của Việt Nam đều phải kiêm thêm nhiều công việc khác để duy trì cuộc sống như kinh doanh, làm quản lý, dạy học. Hầu như không ai kiếm sống được bằng việc hát opera.[60][61] Một bài báo đã nêu lên thực trạng và đặt ra câu hỏi về việc một số nghệ sĩ của dòng nhạc nhẹ hoặc âm nhạc thị trường (showbiz) chỉ cần "vài cú lắc hông" đã có thể thu về khoản tiền lợi nhuận lớn lao, trong khi các nghệ sĩ opera dù "thầm lặng cống hiến" nhưng khoản lợi nhuận chỉ là "muối bỏ bể".[62] Bài báo nhấn mạnh việc đầu tư cơ sở vật chất hạ tầng cho âm nhạc hàn lâm cũng là điều cấp thiết.[62]

Nghệ sĩ tiêu biểu

Nghệ sĩ Hà Phạm Thăng Long, người được đánh giá là một trong những ca sĩ hàng đầu của opera Việt Nam, cũng là người đầu tiên tham dự một cuộc thi opera tại Mỹ.[63] Ninh Đức Hoàng Long là nam nghệ sĩ đoạt giải Nhất cuộc thi opera Quốc tế tại Hungary.[64]

Một số nghệ sĩ opera thế kỷ 21 khác cũng được báo chí Việt Nam đánh giá là nổi bật như Quang Thọ,[65] Quốc Hưng,[66] Vũ Mạnh Dũng,[67] Đào Tố Loan,[68] Lan Anh[69], Khánh Ngọc[70], Hương Diệp[71]...

Khán giả

Vì được cho là loại hình kén người nghe nên opera tại Việt Nam vẫn chưa thu hút đông đảo khán giả. Theo một nghiên cứu tại thời điểm công bố, đa phần khán giả Việt Nam chưa xem bất cứ vở opera nào.[42] Khán giả tại Việt Nam có thể hiểu biết nhiều hơn về những nghệ sĩ V-pop dù hoạt động lâu năm hay chỉ mới nổi so với một nghệ sĩ opera Việt Nam.[60] Khi nhắc đến âm nhạc Việt Nam trong hơn 20 năm đầu thế kỷ 21, dường như khán giả nước này sẽ chỉ nhớ đến những cái tên đình đám của dòng nhạc nhẹ cùng các bảng xếp hạng từ lượt bình chọn qua đài phát thanh cho tới ngày của những thước đo “triệu lượt xem, nghe” qua thời đại công nghệ số chứ không phải những nghệ sĩ thuộc dòng nhạc opera, thính phòng và cổ điển.[62] Bên cạnh đó, công chúng xem opera ở Việt Nam được đánh giá là không nhiều. Khán giả chính của opera ở Việt Nam vẫn là người nước ngoài.[7]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Opera_tại_Việt_Nam https://www.vnam.edu.vn/NewsDetail.aspx?lang=&Item... https://web.archive.org/web/20221003105919/https:/... https://www.worldcat.org/oclc/682149444 https://www.worldcat.org/title/682149444 https://www.google.com.vn/books/edition/Viet_Nam/m... https://www.vnam.edu.vn/NewsDetail.aspx?lang=&Item... https://books.google.com.vn/books/about/Acting.htm... https://www.vnam.edu.vn/rs/Document/2015-LeThiMinh... https://cand.com.vn/dien-dan-van-nghe-cong-an/oper... https://web.archive.org/web/20230103052724/https:/...